Các nhân tố tác động đến tổng cầu

         Kinh tế học vĩ mô để cho thấy cỏ 4 yếu tố trực tiếp cấu thành tổng bao gồm:
(i)     Chi cho tiêu dùng cá nhân (C): bao gồm các khoản chi cố định, chí thường xuyên và các khoan chi tiêu khác ngoài dự kiến phát sinh. Chi cho tiêu dùng cá nhân phụ thuộc vào tổng thu nhập kha dụng (Dl) và xu hưởng tiêu dùng biên (MPC) được xác dinh tuỷ theo từng giai đoạn phát triển nhát định của nền kinh tế.

Các nhân tố tác động đến tổng cầu

(ii)   Chi tiêu của chính phủ(G): Bao gồm các khoản mục chi mua hàng hoá và dịch vụ cửa chính phủ. Nguồn chi tiêu của chính phú phụ thuộc vào khả năng thu ngân sách bao gồm chù yếu là các khoản thu từ thuế và lệ phí.
(iii)Chí cho đầu tư (I): Đây thực chất là các khoán chi tiêu cho các nhu cầu đẩu tư của các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, bao gồm đầu tư vốn cố định và đầu tư vốn lưu động. Nguồn chi cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết kiệm từ các khu vực của nền kinh tế, trong đó đầu tư khôi phục tức lả đầu tư bù đắp giá trị hao mòn được lấy từ quỳ khấu hao còn đầu tư thuần tuý được lấy từ các khoản tiết kiệm của khu vực nhà nước, các hộ gia đỉnh và doanh nghiệp.
(iv)  Chi tiêu qua hoạt động xuất nhập khấu (NX = X-M): Thực tể, giá trị hàng hoá xuất khấu là các khoán phải chi tiêu cho các yếu tố nguồn lực trong nước, còn giá trị nhập khấu là giá trị của các loại hàng hoá sứ dụng trong nước nhưng lại không phái bỏ ra các khoán chi phí cho các yếu tố nguồn lực trong nước nên chênh lệch giữa kim ngạch xuất và nhập khấu (NX) chính là khoản chi phí ròng phải bỏ ra cho quan hệ thương mại quốc tế.
     Dưới sự tác động của thị trường các yếu tố của tổng cầu thường xuyên biến đối, nếu tổng cầu bị giảm sút sẽ gây lãng phí rất lởn các yếu tố nguồn lực của quốc gia đã có nhưng không được huy động và làm hạn chế mức tăng trưởng thu nhập còn ngược lại nếu mức tổng cầu quá cao sẽ làm cho mức thu nhập của nền kinh tế tăng nhưng giá cá các yếu tố nguồn lực trở nên đắt đỏ sẽ đấy mức giá cả chung (PL) của nền kinh tế lên. Chính phủ căn cứ vào tính chất tác động này đế có các chính sách điều tiết tổng cầu sao cho báo đảm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng tương ứng với yêu cầu ổn định giá. Việt Nam trong quá trình theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nhanh và nâng cao dần chất lượng tăng trưởng, sự tác động của các yếu tố đầu ra (tổng cầu) đến tăng trưởng đã có sự thay đối đáng kế: từ năm 2000 đến nay, tích luỹ – đẩu tư và tiêu dùng cuối cùng đã trở thành những yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tuy vậy con số đóng góp “âm” của yếu tố xuất khấu ròng từ vài năm nay là vấn đề rất đáng quan tâm nhất là trong xu thể toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại hiện nay.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: các quy luật kinh tế

Vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế



1.        Tăng trưởng và phát triển kinh tế là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia đang phát triển. Hai vấn đề này không đồng nhất với nhau nhưng có mối quan hệ với nhau. Tăng trưởng là một khái niệm được hiếu theo nghĩa sự thay đối về lượng còn phát triển bao gồm cả ý nghĩa thay đối về lượng và về chất của nền kinh tế. Phát triển là quá trình kết hợp chặt chẽ cả hai yếu tố là kinh tế và xã hội.

Vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế

2.        Nội hàm của phát triển kinh tế được hiểu theo 3 khía cạnh: Tăng trưởng kinh tế, chuyến dịch cơ cấu kinh tế và các yếu tố xã hội. Trong đó tăng trưởng kinh tế tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết cho thực hiện mục tiêu phát triển; chuyến dịch cơ cấu kinh tế là dấu hiệu phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tể và các chỉ tiêu xã hội chính là mục tiêu cuối cùng cần đạt tới. Các mục tiêu của chương trình phát triển thiên niên kỷ do UNDP đưa ra, được sự đồng thuận của phần lởn các nước đang phát triển, bao gồm 8 mục tiêu quán xuyến toàn bộ các khía cạnh về xã hội mà các nước đang phát triển cần phấn đấu.
3.        Phát triển kinh tế là một quá trình lâu dài và nó phải được thực hiện chủ yểu do các nhân tố nội tại của từng quốc gia. Cuốn “Các giai đoạn phát triển kinh tế” (the stages of Economic Growth) (1961) của Walter w. Rostow, một nhà lịch sử, kinh tế nổi tiếng, đã đưa ra một cách tống hợp theo lịch sử về những bưởc (giai đoạn) tuần tự mà mồi quốc gia phải trải qua trong quá trình phát triển. Theo ông, quá trình phát triển kinh tế trải qua 5 giai đoạn. Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi cơ cấu ngành kinh tế, tỷ lệ tích luỹ, những đặc trưng của sự phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế, xã hội. Điều quan trọng là các nước đi sau có thể vận dụng và rút ngắn thời gian của mỗi giai đoạn để đạt tởi mục tiêu phát triển của mình.


Các chính sách kinh tế vĩ mô và lực lượng kinh tế nhà nước


  Các chính sách kinh tế vĩ mô
        Để thực hiện được các chức năng của mình, nhà nước thường sử dụng một hệ thống chính sách, bao gồm hai loại:
(i)   Chính sách định hưởng phát triển. Các chính sách này có chức năng định hưởng, hưởng dẫn các hoạt động kinh tế, xã hội, chi ra cách thức vận động của nền kinh tế để hưởng tởi các mục tiêu phát triển đặt ra. Hệ thống chính sách định hưởng phát triển bao gồm: chính sách phát triển các ngành kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; chính sách phát triển các vùng kinh tế; chính sách phát triển các lĩnh vực kinh tế, xã hội như: dân số – lao động và giải quyết việc làm, khoa học công nghệ, đất đai, chính sách đầu tư, chính sách mở cửa, hội nhập v.v…

Các chính sách kinh tế vĩ mô và lực lượng kinh tế nhà nước

(ii)   Chính sách điều tiết vĩ mô, bao gồm chính sách tài khoá, tiền tệ. Nhà nước thông qua các công cụ chủ yếu của chính sách tài khoá như: thuế, chi tiêu và công cụ của chính sách tiền tệ như: lãi suất, tỷ giá, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong các ngân hàng, lãi suất chiết khấu v.v… nhằm điều tiết nền kinh tế theo hưởng thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các chính sách điều tiết còn nhằm tập trung vào thực hiện tốt quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các đom vị kinh tế và các thành viên trong xã hội, cũng như bảo đảm phúc lợi xã hội cho con người.
          Lực lượng kinh tế nhà nước
         Hiểu theo nghĩa chung nhất, kinh tế nhà nước bao gồm tổng thể các nguồn lực do Nhà nước sở hữu đã, đang và chưa huy động vào sử dụng. Hệ thống kinh tế Nhà nước được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp nhà nước bao gồm doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp; các ngân hàng thương mại nhà nước; công ty bảo hiểm nhà nước. Nhóm thứ hai là hệ thống phi doanh nghiệp nhà nước, bao gồm Ngân sách Nhà nước; Ngân hàng Nhà nước; Kho bạc Nhà nước, các Quỹ dự trữ quốc gia; hệ thống tài nguyên, khoáng sản và đất đai; các dịch vụ công cộng do Nhà nước đảm nhận.
        Việc can thiệp của Nhà nước vào quá trình kinh tế đưa kinh tế nhà nước trở thành khu vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, trở thành một chủ thể kinh tế lởn giúp Chính phủ thực hiện chức năng ổn định, công bằng và hiệu quả. Cụ thể:
         Một là, với tư cách là chủ thể kinh tế có tiềm năng mạnh, Chính phủ đã tham gia vào vòng luân chuyển kinh tế, sử dụng lực lượng tài chính tiền tệ nhà nước như một công cụ mạnh mẽ trong việc phân phối các nguồn lực, hưởng nền kinh tế theo các mục tiêu vĩ mô đã định.
        Hai là, Các lực lượng dự trữ quốc gia the hiện cả bằng hiện vật và giá trị là công cụ giúp Chính phủ ổn định thị trường, cân bằng cung – cầu; bảo đảm ổn định kinh tế, công bằng xã hội, an ninh quốc gia; thực hiện các định hưởng phát triển.
         Cuối cùng, hệ thống doanh nghiệp nhà nước thực hiện những chức năng: cung cấp hàng hoá dịch vụ, giải quyết việc làm, thu nhập, kích thích tiêu dùng, chống đỡ khủng hoảng kinh tế. Với tư cách là công cụ để nhà nước điều tiết các hoạt động của nền kinh tế quốc dân, thông qua đó hưởng dẫn các khu vực kinh tế khác phát triển, các doanh nghiệp nhà nước còn có tác dụng thúc đẩy và tạo môi trường cho kinh tế tư nhân phát triển, tham gia vào chông độc quyền tự nhiên, tối đa hoá phúc lợi xã hội.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: quy luật kinh tế