Chính sách định tỷ giá ngoại tệ của môi nước trong mỗi giai đoạn.
Thực tế các nền kinh tế Hàn Quốc, Hông Kông hay Singapore, nửa thể kỷ trước vẫn
là các nước có thu nhập thấp và sau 1975 vẫn có mức thu nhập khiêm tốn, dưới
3.000$/người. Thậm chí trưởc năm 1985/1986 các nền kinh tế này vẫn thuộc nhóm
nước có thu nhập trung bình, vởi mức thu nhập dưới 7.000$/người.
Nhưng sau đó, các nền kinh tế này đều vượt trên 8.000$/người sau
năm 1990. Thậm chí các nền kinh tế này có GNI bình quân đầu người theo đôla Mỹ
đã tăng hơn gấp đôi chỉ trong 5 năm, Hồng Kông năm 1990 có GN1 bình quân đạt
11.490$/người, thì năm 1995 đã đạt 22.990$/người, còn các số tương tự của
Singapore là 11.460$/người (1990) và 26.730$/người (1995). Kết quả trên, một
mặt là do các nước này đã đây nhanh quá trình công nghiệp hoá, vững bưởc trở
thành các nước công nghiệp hoá mởi (NICs), tạo nên tốc độ tăng trưởng nhanh,
tuy nhiên, bên cạch đó còn là do chính sách điều chỉnh mặt bằng giá và tỷ giá
ngoại tệ cho sát vởi thị trường thể giởi của Chính phủ các nước này.
Thu nhập tính theo ngang giá sức mua (PPP- Purchasing
Power Parity)
Quỹ tiền tệ quốc tếIMF cùng Ngân hàng thể giởi đã đề xuất cách tính thu
nhập theo sức mua tương đương. Theo cách này, GNI của mỗi nước được tính trực
tiếp theo giá quốc tế, tức là theo đồng đô la quốc tế (hiện nay lấy giá trị
đồng đô la của Mỹ làm sức mua tương đương). Cách tiếp cận theo ppp sẽ khắc phục
được hạn chế về sức mua cũng như các chính sách giá và tỷ giá có phân biệt giữa
các nước, vì thể nó có tác dụng so sánh quốc tế chính xác hơn, nhất là khi đánh
giá mức sống dân cư giữa các quốc gia vởi nhau qua thu nhập. Theo cách tiếp cận
ppp, thu nhập của Hoa Kỳ thì gần như không khác biệt giữa hai cách tính, trong
khi vởi các nước đang phát triển thì độ lệch đến vài lần, còn trái lại, vởi một
số nước công nghiệp phát triển ở Tây Âu và Nhật Bản thì do giá cả hơi cao, nên
khi chuyển sang theo ppp thì các số GNP, GNI bị giảm đi, bình quân khoảng 5%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thuộc nội hàm của phát triển kinh tể, nó được
thể hiện ở sự thay đổi về quy mô, tỷ trọng các bộ phận cấu thành nền kinh tế,
vị trí và mối quan hệ tác động qua lại giữa các bộ phận này vởi nhau trong quá
trình phát trien kinh tế. Bản thân cơ cấu kinh tế thường được xem xét dưới
nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ phân công lao động xã hội và sự phát triển
của lực lượng sàn xuất, chúng ta có cơ cấu ngành của nền kinh tế (gọi tắt là cơ
cẩu ngành kinh tế), theo đó nền kinh tế được chia thành ba nhóm ngành lởn (Nông
nghiệp, Công nghiệp và Dịch vụ), tiếp theo là các ngành cấp 1, cấp 2, 3, 4, 5
(từ ngành cấp 2 trở đi gọi là các ngành chuyên môn hóa (CMH)).
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
thu nhap binh quan dau
nguoi